Nhân khẩu Peru

Bài chi tiết: Nhân khẩu Peru
Thành phần chủng tộc và dân tộc tại Peru (nghiên cứu năm 2006)[65]
Instituto Nacional de Estadística e Informática (INEI)
Chủng tộc/Dân tộc
Mestizo (lai da trắng-đỏ)
  
59.5%
Quechua
  
22.7%
Aymara
  
2.7%
Da đỏ Amazon
  
1.8%
Da trắng
  
4.9%
Da đen/Mulatto (lai da trắng-đen)
  
1.6%
Khác
  
6.7%
Tôn giáo tại Peru (điều tra 2007)
Tôn giáoTỷ lệ
Công giáo Rôma
  
81.3%
Tin Lành
  
12.5%
giáo phái khác
  
3.3%
không tôn giáo
  
2.9%
Một phụ nữ người da đỏ tại vùng núi Andes.

Peru là một quốc gia đa dân tộc, hình thành từ các nhóm dân tộc khác nhau trong năm thế kỷ. Người da đỏ sống ở lãnh thổ Peru ngày nay từ hàng thiên niên kỷ trước khi người Tây Ban Nha chinh phục khu vực vào thế kỷ XVI; theo sử gia Noble David Cook thì dân số của họ giảm từ khoảng 5–9 triệu vào thập niên 1520 xuống khoảng 600.000 vào năm 1620 với nguyên nhân chủ yếu là các bệnh truyền nhiễm.[66] Người Tây Ban Nha và người da đen châu Phi đến với số lượng lớn trong thời thuộc địa, họ hỗn chủng trên quy mô lớn với nhau và với người bản địa. Những người Âu đến từ Ý, Tây Ban Nha, Pháp, Anh Quốc, và Đức dần nhập cư đến Peru sau khi quốc gia này độc lập.[67] Peru giải phóng nô lệ da đen vào năm 1854.[68] Người Hoa đến vào thập niên 1850, họ thay thế các công nhân nô lệ, và từ đó có ảnh hưởng rất lớn đối với xã hội Peru.[69]

Cuộc điều tra dân số năm 1940 là cuộc điều tra dân số cuối cùng tại Peru nỗ lực phân loại các cá nhân theo dân tộc, khi đó 53% dân số nhận là người da trắng hoặc mestizo (lai da trắng và da đỏ) và 46% nhận là người da đỏ.[70] Theo CIA World Factbook, phần lớn dân cư Peru là người da đỏ, hầu hết là Quechua và Aymara, sau đó là người mestizo.[53] Trong một cuộc nghiên cứu vào năm 2006 của Cơ quan quốc gia về Thống kê và Tin học (INEI), dân cư Peru phần lớn nhận là mestizo (59,5%), sau đó là Quechua (22,7%), Aymara (2,7%), Amazon (1,8%), đen/Mulatto (1,6%), trắng (4,9%), và "khác" (6,7%).[65]

Với khoảng 29,5 triệu cư dân, Peru là quốc gia đông dân thứ 5 tại Nam Mỹ.[71] Mức tăng trưởng dân số giảm từ 2,6% xuống 1,6% trong giai đoạn 1950 đến 2000; dân số Peru dự kiến đạt khoảng 42 triệu vào năm 2050.[72] Năm 2007, 75,9% dân cư Peru sống tại các khu vực đô thị và 24,1% tại các khu vực nông thôn.[73] Các thành phố chính là Lima, Arequipa, Trujillo, Chiclayo, Piura, Iquitos, Cusco, Chimbote, và Huancayo; các thành phố này đều có trên 250.000 cư dân theo điều tra dân số năm 2007.[74] Có 15 bộ lạc da đỏ chưa tiếp xúc tại Peru.[75]

Tiếng Tây Ban Nha là ngôn ngữ thứ nhất của 83,9% người Peru 5 tuổi hoặc lớn hơn theo số liệu năm 2007. Tiếng Tây Ban Nha cùng tồn tại với một số ngôn ngữ bản địa, thông dụng nhất là tiếng Quechua được 12% dân số nói. Các ngôn ngữ bản địa và ngoại quốc khác được nói nhiều vào thời điểm đó lần lượt chiếm 2,7% và 0,1% dân số Peru.[76]

Theo điều tra dân số năm 2007, 81,3% dân số trên 12 tuổi mô tả bản thân là tín hữu Công giáo, 12,5% là tín hữu Tin Lành, 3,3% theo các giáo phái khác, và 2,9% không tôn giáo.[77] Tỷ lệ biết chữ ước tính là 92,9% trong năm 2007; mức này tại các khu vực nông thôn (80,3%) thấp hơn các khu vực thành thị (96,3%).[78] Giáo dục tiểu học và trung học là bắt buộc và các trường công miễn học phí.[79]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Peru http://www.andeshandbook.cl/eng/default.asp?main=c... http://www.britannica.com/nations/Peru http://www.economist.com/research/backgrounders/di... http://books.google.com/books/about/Desaf%C3%ADos_... http://www.scribd.com/doc/93993434/HAAS-Et-Al-2004... http://www.usatoday.com/news/world/story/2012-01-3... http://ucblibraries.colorado.edu/govpubs/for/peru.... http://digital.library.pitt.edu/cgi-bin/t/text/tex... http://paa2012.princeton.edu/papers/120475 http://dss.ucsd.edu/~mshugart/semi-presidentialism...